bàn thờ hiện đại - tủ thờ hiện đại

Quy thức trong kiến trúc truyền thống Việt Nam

T

Tin Tức - Nhà gỗ

Guest
#1
Kiến trúc truyền thống Việt Nam là tinh hoa của được đúc kết trong cả quá trình hình thành và phát triển của người Việt và luôn mang trong mình những giá trị to lớn về văn hóa.


Kiến trúc truyền thống Việt Nam là tinh hoa của được đúc kết trong cả quá trình hình thành và phát triển của người Việt và luôn mang trong mình những giá trị to lớn về văn hóa, phi vật thể, là đại diện cho văn hóa, tâm hồn, tinh thần của người Việt qua nhiều thế hệ.
Trải qua hàng nghìn năm đô hộ, hàng trăm năm chiến tranh, và quá trình hội nhập nhanh chóng, Các công trình tiêu biểu về kiến trúc truyền thống Việt ngày càng mai một, những công trình còn lại chưa hẳn đã chứa đựng được tất cả các tinh hoa, giá trị về kiến trúc truyền thống Việt. Chính vì vậy sự lai căng, chắp ghép hỗn tạp xuất hiện ngày càng nhiều làm méo mó, sai lệch các quy thức trong kiến trúc truyền thống.

Để giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quát hơn với kiến trúc truyền thống Việt từ đó có lựa chọn đúng đắn trong việc lựa chọn phương án thiết kế chuẩn mực, chúng tôi xin tổng hợp và đúc kết một số vấn đề cần chú ý khi thiết kế không gian theo Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam.

1. Tổng quan kiến trúc truyền thống Việt


Hơn 4000 năm lịch sử, các công trình còn sót lại chủ yếu có niên đại từ thời nhà Hậu Lê (thế kỷ 15) đến thời nhà Nguyễn (thế kỷ 19-20). Trong khi nền kiến trúc Đại Việt được coi là rực rỡ nhất thuộc về kiến trúc thời Lý – Trần, từng sánh ngang với nên kiến trúc truyền thống Trung hoa phương Bắc, nhưng về số công trình hiện hữu còn lại rất ít, Chủ yếu là những nền móng còn sót lại, và các di chỉ khảo cổ như Hoàng thành Thăng Long, chùa Phật Tích, chùa Dâu… dù không đầy đủ những vẫn chứa đựng được rất nhiều giá trị, minh chứng được về quy mô và tinh hoa trong kỹ thuật xây cất của hai triều Lý Trần.

Nhìn chung các công trình còn sót lại từ thời thượng cổ đến thế kỷ 20 trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay cũng chứng minh rất rõ cách thức xây dựng trong dân gian và nơi cung đình rất đặc trưng, có bản sắc riêng biệt, không nhầm lẫn với bất kỳ nền văn minh nào khác, các quy tắc trong thiết kế, xây dựng, quan niệm về tỷ lệ đặc trưng đã tạo nên “quy thức kiến trúc cổ Việt Nam”.

Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam được hiểu là các quy tắc, công thức tính toán về tỷ lệ, kích thước, khoảng cách giữa cách thành tố, cấu kiện tổ hợp lên tổng thể không gian kiến trúc truyền thống. Các kích thước, tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, thành phần kiến trúc được tuân thủ nghiêm ngặt theo một trật tự với những quy tắc riêng biệt và điển hình đã được người Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam (Thượng tam hạ tứ – Thượng tứ hạ ngũ – Tiền kẻ hậu bẩy ..v…v..). Nó được ứng dụng rộng rãi trong đời sống và tạo bản sắc riêng trong kiến trúc, được đánh giá là nét đặc trưng thể hiện tài hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam.

2. Nét đặc trưng.


Kiến trúc truyền thống Việt Nam dễ dàng được nhận biết với các nét đặc trưng so với các nền kiến trúc gỗ cổ phương đông thông qua các yếu tố :

Kiến trúc truyền thống Việt NamKiến trúc truyền thống phương Đông
Dốc mái thẳngDốc mái võng xuống
Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên (tàu đao lá mái)Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (chồng đấu tiếp rui)
Cột mập to, phình ở phần giữa thân dướiCột thanh mảnh, tròn đều


Quy thức tổng quan trong kiến trúc truyền thống Việt Nam​

2.1. Mái nhà


Triền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát, lấy cảm hứng từ mũi thuyền của nền văn hóa sông nước. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình, nhất là đối với mái đình. Góc mái tức “tàu đao” làm cong uốn ngược, còn được gọi là đao quật. Trong khi đó kiến trúc Trung Hoa hay Nhật Bản tuy cũng mái cong vươn ra nhưng chỉ hơi hếch ở góc mái còn thân mái võng xuống, dốc nhiều ở đỉnh rồi xoải dần khi xuống diềm mái.

Kiến trúc mái truyền thống Việt NamKiến trúc mái truyền thống Trung Quốc
Dốc mái Việt thẳng khi xuống đến diềm mái thì dùng bẩyMái Trung Hoa mái võng xuống không dùng bảy​


Góc tầu đao mái chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử. Phía lộ hồi có “vỉ ruồi” che khoảng tam giác chỗ hai mái trước và sau gặp nhau


Quy cách mái gỗ truyền thống

Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hay vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm (long nghê, hay cá chép hóa rồng) ở hai đầu bờ nóc, con sô ở chỗ bờ quyết (bờ guột), con náp, hay lạc long thủy quái. “Khu đĩ” thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là “vỉ ruồi”.


Tàu đao quật ở góc mái, gắn thêm con náp và hàng gạch hoa chanh dọc bờ guột, chùa Dận, Bắc Ninh

Hệ thống đỡ mái hiên là bằng cây kẻ, hay bẩy. Đây một thanh gỗ đặt chéo theo triền dốc mái, khi đến diềm mái thì vươn ra bằng nguyên tắc đòn bẩy.

2.2. Cột.


Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Tiết diện của cột thường là cột thân tròn nhưng cũng có khi dùng cột vuông.

Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng.


Chi tiết dáng cột chuẩn

Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đố là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là “gian”. Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam.


nhà gỗ truyền thống thường gặp​

2.3. Chạm khắc.


Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần công trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn màu sặc sỡ, kiến trúc cổ Việt Nam thường để mộc màu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có màu nâu, thích chạm trổ.


Hoa văn truyền thống đặc trưng trong ngôi nhà Việt

2.4. Thước Tầm.


Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam, tất cả các kích thước tính của công trình đều dựa theo “thước tầm”, một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây là một điều độc đáo, theo cách phân tích cái rất đẹp tỷ lệ thì thước tầm là modulor của kiến trúc cổ Việt Nam như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo ra vẻ rất đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần chân cột, sự thích hợp với người gia chủ.


Thước tầm trong kiến trúc truyền thống Việt Nam.

3. Tên gọi các cấu kiện trong thức kiến trúc cổ Việt Nam


Khung nhà (vì nhà) phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau:

– Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột:

+ Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính tạo chiều sâu cho gian giữa. Nối hai cột cái là câu đầu.
+ Cột quân hay cột con: cột phụ ngắn hơn cột cái, nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính. Khác biệt chiều cao của cột cái và cột con tạo ra độ dốc của mái nhà. Xà nách nối cột con với cột cái.
+ Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước, ngắn hơn cột con. Kẻ bảy nối cột con và cột hiên.

– Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm:

+ Xà lòng, tức câu đầu hay chếnh: liên kết các cột cái của khung;
+ Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung.

– Kẻ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau:

+ Kẻ ngồi loại kẻ gác từ cột cái sang cột quân, trong khung;
+ Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài đâm xuyên qua cột hiên để đỡ phần chân mái.

– Bảy hay bảy hậu hoặc bảy hiên: là dầm nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bảy hiên.

– Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái).

– Con rường hay chồng rường là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng lên cao các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu.

– Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng.

– Rường cụt là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái.

– Các loại xà nằm ngoài khung gồm có:

+ Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái; xà này song song với chiều dài của nhà.
+ Xà hạ hay xà đại, liên kết các cột cái tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái. Xà này cũng chạy song song với chiều dài của nhà.
+ Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên.
+ Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn.
+ Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn.
+ Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung.

– Thượng lương, còn gọi là đòn dông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái.

– Các kết cấu mái:

+ Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà.
+ Dui hay rui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành.
+ Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành – dui – mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và lợp ngói bên trên.
+ Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè.
+ Ngói mũi hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa.

– Các chi tiết kiến trúc khác:

+ Cửa bức bàn
+ Con tiện
+ Dạ tàu
+ Đầu đao

Căn nhà Việt cổ truyền có thể làm theo :

– Hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc,

– Hay theo hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính.

– Hoặc hình thức 8 mái chồng diêm.

Truyền thống người Việt thường làm theo nhà theo cơ số lẻ:

– Phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng;
– Nhà 3 gian;
– Nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 chái;
– Nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 chái;
– Nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 chái.

Bộ phận khác.

Cửa và cửa sổ trong căn nhà cổ truyền là nơi không gian trong và ngoài tiếp giáp nhau. Nói chung thì cửa ra vào khá lớn, có khi không có cánh cửa mà để ngỏ, chỉ buông rèm hoặc có tấm liếp che. Nếu gắn cánh cửa thì có thể dùng “cửa bức bàn” bằng ván kín. Cầu kỳ hơn thì dùng cửa “thượng song hạ bản” tức là phía trên chấn song, phía dưới làm gỗ kín. Ngưỡng cửa khá cao, người ra vào phải giơ chân bước qua. Cửa sổ thì tương đối nhỏ so với cửa ra vào.

chúng tôi tổng hợp biên soạn – Tư liệu wikipedia.org​

Xem tiếp...
 
hoành phi, cuốn thư, câu đối đẹp
Top